DỊCH VỤ CỦA CHÚNG TÔI
Là công ty luật SHTT hàng đầu của Việt Nam trong suốt ba mươi năm qua,
D&N International cung cấp đầy đủ các dịch vụ pháp lý tập trung vào các lĩnh vực sau:
Nhãn hiệu
Quyền sử dụng và chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu
Chỉ khi nhãn hiệu đã được cấp văn bằng bảo hộ thì chủ sở hữu mới có đầy đủ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đó, trong đó có quyền sử dụng nhãn hiệu và chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu.
Với nhãn hiệu chưa được cấp văn bằng bảo hộ, việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng hay chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tiềm ẩn nhiều rủi ro về khả năng xung đột, xâm phạm quyền nhãn hiệu của một chủ thể khác. Đồng thời, các giao dịch này cũng sẽ không thể được ghi nhận tại Cục SHTT.
Không bắt buộc đăng ký/ghi nhận hợp đồng chuyển quyền sử dụng (“li-xăng”) nhãn hiệu
Luật Sở hữu trí tuệ (“Luật SHTT”) hiện hành của Việt Nam quy định rằng việc li xăng nhãn hiệu phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản.
Trước đây, luật quy định hợp đồng li-xăng nhãn hiệu phải được được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước (Cục Sở hữu Trí tuệ – “Cục SHTT”)) thì mới có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba (Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ trước khi được sửa đổi năm 2019). Quy định này đã đặt ra nhiều câu hỏi quan trọng về cách hiểu và áp dụng luật mà chưa bao giờ tìm được câu trả lời cuối cùng, ví dụ như “Ai là “bên thứ ba” mà Luật muốn nói tới?” hoặc “Trong trường hợp mà hợp đồng li-xăng nhãn hiệu chưa được đăng ký tại Cục Sở hữu Trí tuệ, thì việc sử dụng nhãn hiệu được li-xăng bởi bên được li-xăng có được coi là việc sử dụng nhãn hiệu đó với đầy đủ giá trị pháp lý như là của chính chủ sở hữu nhãn hiệu, để làm chứng cứ và lập luận chống lại yêu cầu của một bên thứ ba đòi chấm dứt hiệu lực nhãn hiệu trên cơ sở nhãn hiệu đó đã không được sử dụng trong năm năm liên tục hay không? v.v.
Luật SHTT hiện hành được sửa đổi gần nhất và có hiệu lực vào năm 2019 để đảm bảo tuân thủ cam kết của Việt Nam trong hiệp định CPTPP đã giúp giải quyết được các vấn đề nan giải nêu trên. Theo đó (i) hợp đồng li-xăng nhãn hiệu giờ đây có hiệu lực giữa các bên và có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba (hay nói cách khác là có hiệu lực đầy đủ), mà không phụ thuộc vào việc đã được đăng ký tại Cục SHTT hay chưa (Điều 148 Luật SHTT sửa đổi), và (ii) việc sử dụng nhãn hiệu bởi bên được li-xăng cũng được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu (Điều 136.2 Luật SHTT sửa đổi).
Hồ sơ đăng ký/ghi nhận hợp đồng li-xăng nhãn hiệu tự nguyện
Như đã nói ở trên, việc đăng ký hợp đồng li-xăng nhãn hiệu tại Cục SHTT là không bắt buộc. Tuy nhiên, trong trường hợp các bên vẫn muốn đăng ký li-xăng một cách tự nguyện, các bên cần cung cấp các tài liệu sau:
– 02 bản hợp đồng (bản gốc hoặc bản sao kèm theo bản gốc để đối chiếu, trừ trường hợp bản sao đã được chứng thực theo quy định); nếu hợp đồng làm bằng ngôn ngữ khác tiếng Việt thì phải kèm theo bản dịch hợp đồng ra tiếng Việt; nếu hợp đồng có nhiều trang thì từng trang phải có chữ ký xác nhận của các bên hoặc đóng dấu giáp lai;
– Văn bản đồng ý của các đồng chủ sở hữu về việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu, nếu quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thuộc sở hữu chung;
– Giấy ủy quyền của Bên li-xăng hoặc Bên được li-xăng cho đại diện SHCN (nếu nộp hồ sơ thông qua đại diện).
Yêu cầu đăng ký hợp đồng li-xăng tự nguyện sẽ được thẩm định bởi Trung tâm thẩm định Sau cấp văn bằng thuộc Cục SHTT. Như đã nói ở trên, theo quy định, Cục SHTT không xem xét ghi nhận việc li-xăng các nhãn hiệu chưa được cấp văn bằng bảo hộ.
Một số trường hợp hạn chế việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu điển hình theo quy định của Luật
Theo Điều 142 của Luật SHTT hiện hành, hợp đồng li-xăng nhãn hiệu sẽ phải tuân theo một số quy định giới hạn như sau:
- Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó;
- Bên được chuyển quyền không được ký kết hợp đồng thứ cấp với bên thứ ba, trừ trường hợp được bên chuyển quyền cho phép.
- Bên được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu có nghĩa vụ ghi chỉ dẫn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá về việc hàng hoá đó được sản xuất theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu.
Đồng thời, theo quy định của điều 144 Luật SHTT hiện hành, hợp đồng li-xăng nhãn hiệu không được có các điều khoản hạn chế bất hợp lý quyền của bên được li-xăng, đặc biệt là các điều khoản không xuất phát từ quyền của bên li-xăng, cụ thể là:
- Trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế bên được chuyển quyền xuất khẩu hàng hoá,dịch vụ được sản xuất hoặc cung cấp theo hợp đồng li-xăng nhãn hiệu sang các vùng lãnh thổ không phải là nơi mà bên li-xăng nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp tương ứng hoặc có độc quyền nhập khẩu hàng hoá đó;
- Buộc bên được li-xăng phải mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định các nguyên liệu, linh kiện hoặc thiết bị của bên li-xăng hoặc của bên thứ ba do bên li-xăng chỉ định mà không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá, dịch vụ do bên được li-xăng sản xuất hoặc cung cấp;
- Cấm bên được li-xăng khiếu kiện về hiệu lực của quyền sở hữu công nghiệp hoặc quyền chuyển giao của bên li-xăng.
Việc vi phạm các quy định trên có thể dẫn tới rủi ro hợp đồng li-xăng nhãn hiệu bị mặc nhiên vô hiệu hoặc các bên trong hợp đồng bị xử phạt hành chính. Xin vui lòng liên hệ với các luật sư của chúng tôi để được tư vấn một cách cụ thể tùy theo tính chất vụ việc.
Sáng chế
Đang cập nhật…
Kiểu dáng công nghiệp
Đang cập nhật…